Võ Trọng Bình: Tấm gương thanh liêm hiếm có thời nay?

12

Hiệp biện đại học sĩ Võ Trọng Bình (1808-1898) là một danh nhân đất Quảng Bình, được Mộc bản triều Nguyễn ghi danh đặc biệt với sự nghiệp quan trường hơn 50 năm qua ba triều vua. Ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, tài năng, nhiều lần được vua Tự Đức biểu dương, ban thưởng với bốn chữ "Liêm, bình, cẩn, cán". Võ Trọng Bình giữ nhiều chức vụ trọng yếu, có công lớn trong việc trị thủy, giảm thuế, dẹp yên dân chúng và luôn được dân yêu mến. Dù từng trải qua thăng trầm, sử sách triều Nguyễn vẫn đánh giá cao ông về nhân cách, tài năng trị dân và lòng trung thành, để lại tấm gương sáng cho hậu thế.

(QBĐT) – Trong số các danh nhân đất Quảng Bình, Hiệp biện đại học sĩ Võ Trọng Bình nổi bật với sự vinh danh đặc biệt, được Mộc bản triều Nguyễn-Di sản tư liệu thế giới của UNESCO khắc ghi một cách trang trọng với dung lượng thông tin phong phú.
 
Hiệp biện đại học sĩ Võ Trọng Bình sinh năm 1808, tự là Sư Án, người gốc huyện Phong Phú, nay thuộc xã An Thủy, huyện Lệ Thủy. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), ông xuất sắc đỗ Hương tiến. Khởi đầu sự nghiệp quan trường, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Hòa Đa, nổi tiếng về sự minh bạch và thanh liêm. Sau đó, ông lần lượt được cất nhắc giữ chức Giám sát ngự sử, chuyển sang Hộ khoa chưởng án cấp sự trung, rồi làm Án sát sứ ở Thái Nguyên.
 
Năm 1841, khi vua Thiệu Trị đăng cơ, ông được bổ nhiệm làm Bố chính sứ Phú Yên. Đến năm 1848, ông tiếp tục được điều về giữ chức Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Tại đây, ông đã dâng sớ xin triều đình cho khơi thông sông Lợi Nông, đắp đê ngăn nước mặn và giảm miễn 3/10 thuế công điền. Vào kỳ xét công tội ba năm một lần, năm Tự Đức thứ 6 (1853), vua Tự Đức đã biểu dương ông là người thanh liêm, không gây nhiễu nhương dân chúng, ban thưởng một chiếc khánh bằng vàng tía hạng lớn khắc bốn chữ “Liêm, bình, cẩn, cán”, sau đó bổ dụng ông làm Tuần phủ Hưng Yên.
Nhà thờ Võ Trọng Bình ở thôn Lộc Thượng, An Thủy, Lệ Thủy.
Nhà thờ Võ Trọng Bình tại thôn Lộc Thượng, xã An Thủy, huyện Lệ Thủy.
Năm Tự Đức thứ 9 (1856), khi đang tạm quyền Tổng đốc Ninh Thái, đối mặt với thiên tai bão lụt khiến dân tình khốn khó, ông đã tâu xin gia hạn hoãn việc bắt lính trốn và thu thiếu thuế, được nhà vua chuẩn y. Khi đê Hà Bắc vỡ, việc trị thủy gặp vô vàn khó khăn, triều thần đã tiến cử ông là người tài cán lão luyện, đổi ông làm quản lý việc đê chính. Vua đặc biệt dặn dò ông phải tận tâm dốc sức.
 
Năm Tự Đức thứ 14 (1861), đang giữ chức Thự Tổng đốc An Tĩnh, khi hạt Nghệ An báo cáo được mùa, vua Tự Đức vui mừng làm bài thơ ban cho ông xem. Võ Trọng Bình liền dâng tấu ba việc nhằm dẹp yên và vỗ về dân cư vùng Bắc kỳ, được nhà vua khen ngợi và thăng chức Tổng đốc. Năm Tự Đức thứ 16 (1863), ông chuyển sang giữ Thượng thư bộ Hộ, làm việc tại bộ Công, rồi sau đó kiêm nhiệm chức đại thần Cơ mật viện. Vua nhận thấy khi ở Nghệ An, ông được quan lại và dân chúng yêu quý, kính phục, bèn ban thưởng thêm một cấp trác dị cùng một thẻ bài kim khánh hạng lớn khắc chữ “Liêm, bình, cẩn, cán”, đồng thời chuẩn cho con trai ông được thừa ấm, ban thêm một phẩm trật, và thông báo rộng rãi để khuyến khích. Ông khiêm tốn từ chối, nhưng nhà vua không chấp thuận, ban dụ rằng: “Ban thưởng để khuyến khích, đó là điển lệ, khen một người để khuyên trăm người, cũng là bắt đầu từ cái ý của họ Ngỗi” (1).
 
Năm Tự Đức thứ 19 (1866), trong kỳ đại kế xét công, nhà vua nhận định Võ Trọng Bình là người thanh liêm, cần mẫn, có tài năng xuất chúng, đi đến đâu cũng để lại tiếng tốt. Bởi lẽ đó, ông được thăng chức Thự Hiệp biện đại học sĩ nhưng vẫn kiêm lĩnh chức cũ. Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874), do cuộc nổi dậy của Mai Tấn ở Nghệ An, ông được điều chuyển sang lĩnh chức Tuần phủ Nghệ An. Bằng tài năng vừa đánh dẹp vừa phủ dụ, ông đã ổn định được tình hình. Khi vua cho bộ Lại xét duyệt, cân nhắc người tài, ông được đánh giá là người giữ được tiết tháo, thanh liêm, chính trực nên được đổi sang giữ chức Tả Tham tri bộ Lại. Năm Tự Đức thứ 28 (1875), khi đang kiêm nhiệm chức Hộ lý Tổng đốc các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang, chưa được bao lâu, ông xin về nghỉ hưu vì tuổi già. Nhà vua không chấp thuận mà ban dụ rằng: “Khanh một lòng trung thành, trước sau không thay đổi, huống chi lỗi của khanh chưa được bù đắp, ơn của khanh chưa được ban thưởng. Lúc này đang gian nguy, sao khanh nỡ cáo lão. Chuẩn cho khanh được nhận chức” (2).
 
Khi được vua Tự Đức hỏi: “Khanh trị dân thế nào mà được dân yêu mến?”, ông tâu: “Không dung túng quan lại, nghiêm bắt bọn trộm cướp, lệnh cho các phủ huyện việc kiện tụng không được để lâu và thuế lệ hàng năm phải chiếu cố, những việc đó phải làm cho rõ” (3). Vua Tự Đức muốn giữ ông làm việc ở bộ Lại nhưng lại mong muốn tận dụng trí tuệ và kinh nghiệm của ông ở nơi hiểm yếu, nên đã điều về Sơn Tây. Về sau, ông được điều động giữ chức Tổng đốc Định Yên, kiêm trông coi việc vận chuyển bằng tàu thuyền. Năm Tự Đức thứ 35 (1882), ông tròn 70 tuổi, vua ban dụ rằng: “Võ Trọng Bình từng làm quan qua 3 triều, tính tình thường nóng vội nên hay vấp váp, nhưng vẫn giữ một lòng chất phác, trung thành, được ưu ái đến già không thay đổi. Trẫm ban thưởng cho tiền bạc, phẩm vật để khuyến khích sự vất vả, chăm chỉ và tỏ ý phụng dưỡng tuổi già” (4).
Tấm bia đá đặt tại nhà thờ Võ Trọng Bình.
Tấm bia đá được an vị tại nhà thờ Võ Trọng Bình.
Mùa xuân năm Tự Đức thứ 36 (1883), quân Pháp từ Hà Nội tiến công bao vây tỉnh thành. Bấy giờ, trong bối cảnh hòa ước chưa định, quân triều đình với lực lượng yếu kém, vũ khí thô sơ đã không thể chống đỡ và chịu thất bại. Võ Trọng Bình, vì sự kiện này, đã bị cách chức và triệu về kinh để chờ xử lý. Tuy nhiên, đến năm Kiến Phúc thứ nhất (1883), ông được phục chức làm Thương biện tỉnh vụ Nghệ An, sau đó được triều đình triệu về kinh đô thăng lên chức Thượng thư bộ Hộ. Do tuổi cao sức yếu, ông đã xin về hưu. Đầu năm Đồng Khánh thứ nhất (1886), ông được chuẩn nhận hàm Thượng thư và khi trí sĩ, được hưởng một nửa bổng lộc.
 
Vào năm Thành Thái thứ 10 (1898), ông tạ thế tại quê nhà, hưởng thọ 91 tuổi. Sách sử triều Nguyễn đã ghi nhận về sự ra đi của ông: “Nguyên Thượng thư bộ Hộ gia hàm Hiệp biện đại học sĩ hưu trí Võ Trọng Bình chết. Trọng Bình là bậc cựu thần thạc vọng, có tiếng thanh liêm, làm quan trong ngoài huân lao với nước, sau vì tuổi già về trí sĩ năm Thành Thái thứ 3, kính vâng ý chỉ là bậc kỳ cựu thanh liêm tài cán của triều trước nên ban cho hàm ấy (Hiệp biện đại học sĩ). Đến lúc ấy chết, đặc chuẩn truy thụ, chiểu lệ cấp tiền tuất (700 quan) để tỏ ý ưu đãi thể thiếp” (5).
 
Sách Đại Nam liệt truyện đã có những nhận định sâu sắc về nhân cách và tài năng của ông: “Trọng Bình là người cứng rắn, thẳng thắn, thực thà, ngay thẳng, đi đến đâu cũng có tiếng liêm, bình, dẫu sở đoản về cách dùng binh, nhưng sở trường về cách trị dân, nên sau khi đi, dân vẫn thường nhớ” (6). Hơn 50 năm phụng sự triều đình, kinh qua các vị trí trong và ngoài kinh, ông đã thực sự xứng đáng với lời ngợi ca “Khổn bức vô hoạ, an tĩnh chi lại”, hàm ý một quan lại chân thật, không phù hoa, mang lại sự bình yên cho dân chúng. Tấm gương liêm chính, ngay thẳng và lòng trung thành của ông còn được ghi lại trong Trung nghĩa ca, khi đề cập đến cuộc khởi nghĩa Đoàn Trưng, Đoàn Trực:
      “Thanh liêm một Võ Trọng Bình
      Thành nghiêng muốn chống một mình sao xong”
 
Hiện nay, phần mộ Thượng thư Võ Trọng Bình an vị trên triền đồi Lục Sơn, thuộc xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy. Người dân địa phương vẫn kính cẩn gọi là Lăng Quan Thượng. Mộ hướng Tây, và để bảo vệ tấm bia mộ khỏi sự bào mòn của thời gian, con cháu trong dòng tộc đã di dời về cất giữ tại quê nhà. Năm 2003, khi nhà thờ được xây dựng trên nền đất cũ tại thôn Lộc Thượng, tấm bia quý này đã được an vị trang trọng trước bình phong. Bia đá cao khoảng 102cm, trán bia rộng 60cm, thân bia rộng 50cm, mang đậm phong cách văn bia triều Nguyễn. Dù dấu vết thời gian đã làm mờ một số chữ, dòng chữ “Bi ký” cùng “Thành Thái thập tứ niên, tam nguyệt sơ thập nhật” (bài ký trên bia, hoàn thành ngày 10 tháng 3 năm Thành Thái thứ 14 – 1902) vẫn hiển hiện rõ nét, tính đến nay đã tròn 122 năm.
Tấm gương liêm, bình, cẩn, cán của Võ Trọng Bình được sử sách triều Nguyễn ngợi ca, mãi là niềm tự hào của đất Quảng Bình.
Nhật Linh
                                                                   
 (1), (2), (3), (4) Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, Tổng tập công thần triều Nguyễn qua tài liệu Mộc bản-Di sản tư liệu thế giới, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016, tập 2.
(5) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2012.
(6) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hóa, Huế, 2014, tập 3-4.