Phong tục tập quán của người dân Lệ Thủy

2467

Lệ Thủy là mảnh đất có nền văn hóa lâu đời. Trải qua hàng trăm năm dựng xây và bảo vệ đất nước, người dân xứ Lệ đã hình thành nên những phong tục tốt đẹp cần được lưu giữ mãi đời sau.

1.Tôn tạo kính trưởng:

Các cụ cho rằng trước khi nhắm mắt xuôi tay, không ai tránh khỏi một thời gian già nua  tuổi tác. Chúng ta trọng già, kính lão là vạch đường đi nước bước cho con cháu. Điều biện chứng ấy cứ tiếp diễn đời đời. Trong nhà thì đề cao hiếu để. Đối với cha mẹ đẻ, người con phải giữ được chữ hiếu, phải đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ còn là người lớn tuổi, ông bà còn ở bậc cao hơn. Trong những năm tháng ấy, các cụ đã đi qua chặng đường gian khó, vấp váp hy sinh để nuôi dạy con cháu góp phần xây dựng xóm làng, đất nước. Xưa có câu: “Sống lâu ra lão làng”, “ Kính già già để tuổi cho”.Vì Vậy mà trên quê hương xứ Lệ đã có nhiều gia đình “Tứ đại đồng đường” (dưới một mái nhà có bốn thế hệ cùng sinh sống). Họ tự hào trong dòng họ mình phúc đức có những ông cụ trăm tuổi được con, cháu, chắt thương yêu. Nhiều phụ nữ đoan chính được khen “Tiếp hạnh khả phong”. Ở huyện Lệ Thủy có nhiều trường hợp người đàn  bà trẻ mới một con, chồng mất ở vậy thờ chồng nuôi con và được  sử sách lưu lại, Bà Đoàn Thị Quý ở Phú Thủy, năm 24 tuổi chồng chết, bà sinh được một người con trai. Có người trong xã tên là Trương Văn Chàng ép cưới: Bà lấy kéo cắt tóc tự thề không tái giá, Việc này được tâu lên triều đình, nhà vua thưởng bà kim tiền; Bà Phan Thị Lưu năm 20 tuổi sinh được con gái thì chồng mất. Có nhiều trai trẻ trong làng xin cưới,  bà từ chối ở vậy thờ chồng nuôi con cho đến khi qua đời.

2. Tình làng nghĩa xóm:

Người xưa nói: “ Nhất cận lân, nhì cận thân”.

Tình cảm xóm làng rất quan trọng bởi khi “ Tối lửa tắt đèn “, thủy hoả đạo tặc” thường có nhau. Lệ Thủy lại là nơi khí hậu khắc nghiệt bão tố, lũ lụt, hạn hán thường xảy ra. Nếu không có sự giúp đỡ của bà con xung quanh thì sao sống được  nơi thiên nhiên khắc nghiệt. Đặt nghĩa lân bang lên trước lại để giải  quyết quan hệ cuộc sống hằng ngày. Đành rằng tình cha con, anh em là đạo “ Hiếu để” xưa nay nhưng nếu cha ở Hà Nội, con ở Sài Gòn thì không chăm sóc nhau hằng ngày được.

Tập quán quê hương Lệ Thủy là:

– Rượu ngon không thiếu bạn hiền.

– Tìm ra trộ cá đặc là kêu nhau cùng tát.

– Có nồi nước chè mới là tìm nhau cùng uống.

– Người đi xa về là có quà cho trẻ nhà biên.

Ngày kị, ngày giỗ …. bà con thân thích có thể thiếu  nhưng nhà trước nhà sau phải mời. Phải tránh cho được cảnh:“Dâu dữ bỏ họ,chó dữ bỏ láng giềng”.Trong chiến tranh, lệ Thủy còn tổ chức: “ Ngũ gia liên bảo”, Thập gia liêm  bảo” (Trong phạm vi 5- 10 nhà có trách nhiệm bảo vệ nhau). Ngoài phạm vi vật chất phải bảo vệ nhau về chính trị, tinh thần, tình cảm. Nói về tình họ hàng huyết thống, xưa có câu: “Máu loãng còn hơn nước lã”,”Anh khó nhưng họ anh đông, mỗi người mỗi đồng cũng đủ anh ăn” “.Vì vậy người cùng một họ không được lấy nhau, dù đã cách mấy đời. Luật hôn nhân và gia đình cho phép bà con qua bốn đời là có thể lấy nhau. Nhưng ở Lệ Thủy không ai làm như vậy.Việc giữ gìn dòng họ, huyết thống ở Lệ Thủy có mặt tích cực. Khi tảo mộ, khi việc lễ, kị, giỗ…..đều tập trung con cháu lại cúng. Đây là dịp để bà con, anh em gặp nhau tâm sự hàn huyên nhắc lại những kỹ niệm đẹp thời niên thiếu. Đây cũng là dịp họ hàng gần gũi nhau, nhắc nhau làm tốt điều hay lẽ phải, tránh xa những điêu sai trái.

3. Tục để tóc bối, râu dài, nhuộm răng ăn trầu:

Người xưa thường nói: “Cái răng cái tóc là góc con người”. Để tóc dài không chỉ dành cho phái đẹp mà những người đàn ông có học đạo thánh hiền cũng để tóc dài có búi to sau gáy. Mãi đến khi cách mạng tháng tám thành công, chúng ta vẫn còn thấy đâu đó, có cụ đeo tóc dài. Trước cách mạng hầu hết chị em phụ nữ Lệ Thủy đều có tục nhuộm răng đen và ăn trầu. Tập tục này có ưu điểm là bảo vệ rặng khỏi bị sâu tấn công, song vì không hợp mốt thời trang tân tiến nên tập tục nhuộm răng đen đối với phái đẹp và để tóc dài đối với phái mày râu đã không còn.

4. Tục thờ cúng:

a) Cúng đình: Từ xưa ràng nào cũng có đình, chùa điện thánh. Đình là nơi thờ thần, thờ các vị có công với dân, với nước. Lễ tiến hành vào tháng 6 hàng năm tại đình làng lộ to nhất. Những làng nhiều ruộng, đất tốt như Thượng Phong thì heo, xôi, bánh trái nhiều vô kể. Khi tế có ban gia lễ với bộ quần áo lễ trang nghiêm, xưng hô bài bản, có cổ nhạc, kèn trống, chiêng rộn rã long trọng, có xôi, thịt, trà, rượu đầy đủ.

Đình có ba gian lớn, khi làm lễ có ba vị quan sắc trong làng đứng lạy, bái.

“Một người lạy bái sức khỏe cả làng” ‘. Áo, mũ và cung cách tế lễ đều giống nhau theo nền nếp nhà vua ban xuống. Chi phí đã có ruộng đất làng trích ra hàng năm bán lấy tiền. Các phương tiện nghi lễ, nghi môn đã có quan làm việc xa gửi về cúng làng. Từ thượng thư, tông đốc, tri phủ, tri huyện. . . ai cũng muốn làm một việc gì đó cho quê hương.

b) Cúng chùa: Chùa là nơi thờ phật. Ở Lệ Thủy trước năm 1945, có nhiều chùa thờ nhiều tượng phật sơn son thiếp vàng rất đẹp. Thường thường gian giữa phía sau tầng trên cao thờ ba vị: Di Đà, Di Lặc, Phật Tổ. Bên phải thờ đức Quan Công, bên trái thờ đức Phát Bà, ấy chính điện thờ phật Thích Ca. Hai bên phía ngoài cửa, một bên thờ ông thiện,… một bên thờ ông ác. Phía ngoài cửa có hai bức tượng hộ pháp giữ chùa. Tất cả các chùa ở Lệ Thủy đều không có hòa thượng. Dân làng cũng không ăn chay niệm phật nhưng chùa đặc biệt có cử một ông thầy có tư cách giữ chùa, người có phong độ bề thế để lo hương khói chu tất trong các ngày rằm, mồng một. Ruộng thờ tự ở chùa được làng ưu tiên hơn chô khác: Ruộng tam bảo. Cúng chùa vào ngày rằm tháng chạp. Cúng lễ không phải lấy quỹ của làng mà do dân tự nguyện cúng bánh chưng. Quan sắc cúng bánh to, miễn sai miễn đao: Bánh vừa, dân ba hạng thì bánh nhỏ. Ai mang bánh chưng đi cúng đều mang ra nhà tăng để hương mục phân phối,việc cúng.

c) Cúng điện: Điện là nơi thờ thánh – Đức Khổng Tử, một nhà hiền triết lỗi lạc ở Trung Quốc. Lễ điện thường cúng vào tiết thanh minh tháng 3. Lễ cúng có heo, xôi lớn thứ hai sau cúng đình. Có tục truyền rằng: ai cũng khen tài năng chữ nghĩa của thánh. Nhưng thánh phải chịu thua ruồi, phải ăn sau ruồi. Vì vậy, cúng phải cúng ban đêm gần sáng.

d) Cúng ông bà, tổ tiên: Hàng năm đến ngày kị giỗ, con cháu nội ngoại tập trung làm lễ tưởng nhớ người xưa

đ) Thờ Đạo: Thế kỷ XVII, XVIII người phương Tây vào buôn bán với chúa Nguyễn ở Đằng Trong có bóng dáng truyền đạo Thiên chúa. Đến cuối thế kỷ XVIII Nguyễn Ánh theo Bá Đa Lộc  nhờ chính phủ Pháp can thiệp. Đây là dịp cha cố vào truyền đạo nước ta ngày càng nhiều. Phải khách quan nhìn nhận rằng: Đạo Thiên chúa cũng như đạo Phật đều xuất phát từ lòng bác ái vị tha, cứu nhân độ thế và hướng thiện nên ngày càng thu hút nhiều người theo. Từ xưa nhiều nhà thờ đạo đã được dựng lên ở Lệ Thủy như: Ngân Sơn, Mỹ Đức, Xuân Hòa, Ngô Xá, Xuân Bồ, Tuy Lộc, Đại Phong, An Lạc, Mỹ Duyệt, An Định, Thạch Xá.

Trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, nhiều thanh niên giáo dân đã lên đường nhập ngũ lập được nhiều chiến công. Tháng 5 năm 1950, cả làng công giáo Xuân Bồ ủng hộ bộ đội Trung đoàn 18 đánh giặc Pháp lập được chiến công xuất sắc. Đặc biệt có cụ Sé 70 tuổi chèo đò băng qua lửa đạn đưa bộ đội Tiểu đoàn 136, Trung đoàn 18 từ làng Uẩn Áo sang Xuân Bồ chiến đấu.

Trong tám năm giặc Pháp chiếm đóng Lệ Thủy, tội ác “Trời không dung đất không tha” còn lưu lại trên các lô cốt. Các đình, chùa, điện thánh, nhà thờ họ và các nhà dân, chúng đưa lính tháo về xây đắp đồn bốt. Trong 10 năm (1965-1975) máy bay giặc Mỹ đã dội biết bao bom đạn phá hoại làng quê, các nhà thờ đạo bị bom Mỹ phá hủy. Cùng với Bình – Trị – thiên, Lệ Thủy gian lao và anh dũng. Đây là mảnh đất tiếp giáp với Vĩnh Linh, nơi tuyến lửa bom đạn ác liệt. Hiện nay thắp đóm tìm cũng không thấy một ngôi đình, một ngôi nhà cổ. Con cháu ngày nay muốn nhìn lại, tìm hiểu truyền thống cha ông, tổ tiên xưa qua kiến trúc phượng múa rồng bay, đường tô nét vẽ – bản sắc xây dựng của một thời kỳ lịch sử đã không còn.

Theo Nguyễn Khoa Học