Bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ. Những trận đánh ở phía đông của đại đoàn 316 do thiếu tướng Lê Quảng Ba chỉ huy bắt đầu vào đợt tiến công thứ 2 và thứ 3 của chiến dịch vào các đồi C1 và A1. Trung đoàn 98 do Vũ Lăng chỉ huy tấn công vào C1 và Trung đoàn 174 do Nguyễn Hữu An chỉ huy tấn công vào A1.
I
Vào khoảng trung tuần tháng 10 năm 1953, đại đoàn tôi đã hoàn thành tốt đẹp cuộc chỉnh quân chính trị và huấn luyện quân sự. Tôi nhận thấy đơn vị tôi đang có một sức mạnh vô địch, sức mạnh bắt nguồn từ lòng căm thù đế quốc và phong kiến địa chủ rất cao. Ai cũng mong được đi chiến đấu ngay để trả thù cho giai cấp mình. Vả lại, Thu Đông đến rồi. Thu Đông là mùa giết giặc lập công của bộ đội.
Giữa lúc đó thì địch cho quân đánh thọc ra vùng tây nam Ninh Bình. Cán bộ và chiến sĩ tưởng như được đi chiến đấu ngay, nên có vẻ vui mừng chờ đợi. Một số cán bộ tiểu, trung đoàn ra chiều sốt ruột, mỗi khi gặp tôi, lại hỏi:
– Thế nào, anh?
Tuy chưa được phổ biến nhiệm vụ quân sự Đông Xuân, nhưng tôi cũng phỏng đoán rằng: nhiệm vụ đại đoàn tôi không phải ở phía đó, vì thế tôi trả lời:
– Thế nào nữa. Cứ chuẩn bị sẵn sàng, đợi lệnh Bộ Tổng tư lệnh. Hướng chuẩn bị vẫn như mọi năm. Mũ, lưới ngụy trang, ống bương đựng nước, gậy chống… tất cả là hướng lên miền rừng núi.
Quả nhiên, đầu tháng 11 năm 1953, chúng tôi nhận được lệnh tiến quân vào Tây bắc lần thứ hai để giải phóng thị xã Lai Châu.
Ngày 3 tháng 11 năm 1953, đồng chí Vũ Lập, tham mưu trưởng đại đoàn dẫn một đoàn cán bộ cùng với đội quân báo hành quân trước để chuẩn bị chiến trường.
Mấy hôm sau, tôi chỉ huy đại đoàn hành quân, còn anh Chu Huy Mân – chính ủy đại đoàn – thì về Bộ họp để nhận nhiệm vụ quân sự Đông Xuân.
Tây bắc đối với chúng tôi không xa lạ gì. Từ tháng 10 năm 1952 tới giờ, đơn vị tôi chiến đấu liên tục, giải phóng Mộc Châu, Quang Huy, Ba Khe… sau bao vây Nà Sản và hồi tháng 9 vừa qua tiêu diệt 3.000 thổ phỉ ở Mường Lầm (Thuận Châu), bây giờ toàn đại đoàn lại ồ ạt tiến quân theo con đường cũ. Để giữ bí mật, đại đoàn cứ ngày nghỉ, đêm đi. Riêng đoàn cán bộ thì đi trước, nên đều đi ban ngày. Con đường 41 hồi đó cỏ vẫn mọc rậm rạp vả lại máy bay địch ít tuần tiễu nên chúng tôi hành quân không gặp trở ngại gì mấy.
Một hôm, đang trên đường hành quân tôi bỗng nghe tiếng máy bay địch bay lên phía Lai Châu rất nhiều. Tôi nghĩ bụng: chúng đánh hơi thấy mình lên Tây bắc, tăng cường quân chăng?
Tối hôm đó, tới Mộc Châu, tôi nhận được điện của Bộ báo cho biết địch đã nhảy dù xuống Điện biên phủ. Tôi phán đoán rằng có thể địch xuống đó để tiếp ứng cho Lai Châu đang bị cô lập, nhưng cũng có thể chúng rút từ Lai Châu về Điện biên phủ để thành lập tập đoàn cứ điểm như ở Nà Sản năm 1952, tránh bị quân ta tiêu diệt đây.
Trước tình hình đó, một mặt tôi hội ý cán bộ, một mặt cho bộ đội tranh thủ hành quân thật nhanh lên Lai Châu.
Mấy hôm sau, anh Mân đi họp về. Anh đi xe đạp suốt từ Thái Nguyên cho đến khi đuổi kịp chúng tôi. Anh phổ biến chủ trương quân sự Đông Xuân của Trung ương và đồng thời nhắc lại mệnh lệnh của Đại tướng: địch đã nhảy dù Điện biên phủ. Đơn vị phải hành quân cấp tốc lên bao vây Lai Châu. Phải chặn con đường từ Lai Châu về Điện biên phủ. Đề phòng địch từ Lai Châu rút về Điện biên phủ.
Trước tình hình đó, chúng tôi quyết định chia làm hai cánh quân. Cánh thứ nhất theo đường 41 tiến thẳng lên tiêu diệt địch ở thị xã Lai Châu. Cánh quân thứ hai từ Tuần Giáo tạt ngang vào phía bắc Điện biên phủ chặn đường từ Lai Châu về Điện biên phủ.
Tiểu đoàn 439 đi đầu cánh quân thứ nhất xuất phát từ Tuần giáo tối 9 tháng 12 năm 1953. Tiểu đoàn này đã hành quân liền trong 20 đêm rồi, nhưng với tinh thần tích cực tiêu diệt địch, đêm hôm đó anh em cấp tốc hành quân được 68 cây số. Sáng hôm sau tiểu đoàn gặp địch ở Pa Ham. Ở đây có ba đại đội địch do tên Guyn-lơ-mit chỉ huy. Sau nửa giờ chiến đấu, tiểu đoàn đánh tan ba đại đội địch, tên Guyn-lơ-mít trốn vào rừng nhịn ăn, nhưng sau cũng bị bộ đội ta bắt. Ta tiến về Lai Châu, đánh tan bọn địch ở đèo Cơ-la-vô. Hai giờ sáng ngày 12 tháng 12 năm 1953, ta tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu. Bọn địch còn lại bỏ chạy về phía Tây bắc – Lai Châu, một bộ phận về phía nam đường đi Điện biên.
Chúng tôi nhận được tin chiến thắng, vừa mừng nhưng vừa lo. Nếu để bọn địch chạy thoát về tập trung quân ở Điện biên phủ thì nhiệm vụ của Bộ giao cho, chúng tôi không hoàn thành. Chết một cái là quân địch hễ thấy ló bóng quân ta đâu là chúng đã co chân bỏ chạy, nên việc tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch lúc đó gặp khó khăn. Chúng tôi đánh điện cho tiểu đoàn 439 tiếp tục truy kích địch, một mặt khác giục cánh quân thứ hai phải đánh chặn tiêu diệt bằng hết, không để một tên nào chạy thoát về Điện biên phủ. Mấy hôm sau, tôi được tin tiểu đoàn 439 đã đuổi kịp và đánh tan một đại đội nữa của địch.
Ngày 12 tháng 12, cánh quân thứ hai gặp bọn địch ở Lai Châu rút về đóng quân ở mỏm núi Pu San và vùng Mường Pồn, cách Điện biên phủ gần hai chục cây số. Ngày 13 tháng 12, một tiểu đoàn do trung đoàn trưởng Vũ Lăng chỉ huy tấn công vào Pú San và Mường Pồn, tiêu diệt và đánh tan 5 đại đội. Trong trận này đồng chí Bế Văn Đàn ở đại đội 674 đã lấy thân mình làm giá súng (các sách, báo đã nói nhiều, ở đây tôi không kể chi tiết nữa) và nêu tấm gương anh hùng cho toàn đại đoàn tôi. Khí thế lập công sôi nổi, các đơn vị tiếp tục truy kích địch. Cho đến ngày 19 tháng 12, hai cánh quân của đại đoàn tôi bao vây chặt quân địch, đánh hai trận lớn tiêu diệt 9 đại đội địch nữa. Tính ra sau 12 ngày truy kích địch, đại đoàn tôi đã cấp tốc hành quân trên quãng đường 300 cây số, vượt qua hàng chục ngọn núi cao, đã tiêu diệt và đánh tan 24 đại đội địch tổng cộng trên 2.500 tên, thu gần một nghìn súng các loại. Nhiệm vụ của Bộ giao cho đại đoàn chúng tôi thời kỳ đầu chiến dịch Điện biên phủ, căn bản đã hoàn thành thắng lợi.
II
Bọn địch nhảy dù thêm xuống Điện biên phủ. Chúng đóng thành tập đoàn cứ điểm. Lúc đầu chủ trương của Đảng ủy mặt trận là “đánh nhanh giải quyết nhanh” nên đưa quân vào sát Điện biên phủ. Nhưng sau đó, Đảng ủy mặt trận nhận định “đánh chắc tiến chắc” có lợi hơn, nên hạ lệnh cho các đơn vị rút quân ra để đi mở đường đưa pháo vào trận địa.
Nhận được lệnh, hôm đó tôi ra dốc Tà Lèng để chỉ huy đơn vị quay về. Sau đó tôi trèo lên mấy quả núi tìm địa hình để bố trí một đơn vị nhỏ bám sát địch. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ khu rừng phía Đông này, không được để địch tiến ra chiếm các cao điểm. Ngoài ra chúng tôi còn nhiệm vụ bảo vệ hầm pháo 75 để sắp tới bắn kiềm chế địch.
Ngày 31 tháng 1 năm 1954, hai đại đội địch kéo ra dốc Tà Lèng. Gặp một tiểu đội thuộc đại đội 925 chặn đánh, chúng bỏ chạy. Lập tức tiểu đội đồng chí Niết được lệnh vận động truy kích địch. Dũng sĩ Hoàng Văn Nô một mình đã dùng lưỡi lê đâm chết 5 tên địch, và đâm đến tên thứ 5, Nô chưa kịp rút lưỡi lê ra thì bị một tên địch dùng tiểu liên bắn. Nô ngã xuống, nhưng mắt anh quắc lên, đỏ ngầu, hai tay vẫn giữ tư thế đâm lê rất lẫm liệt. Tinh thần dũng cảm của Hoàng Văn Nô đã nêu cao gương thi đua giết giặc lập công trong đại đoàn.
Ngày mồng một Tết, khoảng 8 giờ sáng, anh Văn gửi điện chúc Tết đơn vị và riêng cá nhân tôi. Chúc Tết xong, anh Văn hỏi:
– Hôm nay có “làm ăn” gì để mừng năm mới không đấy?
Chả là chúng tôi đã đào xong hầm pháo 75 rồi. Theo lệnh của anh Văn, pháo của ta bắt đầu bắn vào sân bay để phá máy bay địch. Tôi báo cáo:
– Anh em đã chuẩn bị sẵn sàng rồi. Đợi tan sương mù mới bắn được.
Thỉnh thoảng anh Văn lại hỏi:
– Sương tan chưa?
Sương mù ở Điện biên phủ thường phủ kín cánh đồng cho đến 10 giờ mới tan dần. Tôi lên đài quan sát trông xuống. Sương mênh mông như mặt biển. Mười một giờ sương mới tan dần. Sân bay Mường Thanh ngày một hiện rõ. Theo báo cáo của đài quan sát thì sân bay lúc đó có 8 chiếc hen-cát, 2 chiếc bà già và một số đa-
cô-ta. Tôi báo cáo với anh Văn. Anh Văn cho lệnh bắn. Tiếp đó anh Văn nhấn mạnh:
– Kiểm tra anh em ngắm chắc rồi hãy bắn. Nên nhớ rằng mỗi viên đạn đưa từ hậu phương lên tốn nhiều công sức lắm đấy.
Tôi lại đáp:
– Rõ.
Và chấp hành ý kiến của anh Văn, tôi nhắc anh em pháo binh phải tiết kiệm đạn và trận bắn đầu tiên phải chính xác, quyết lập công để mừng năm mới.
Phát thứ nhất bắn vào giữa sân bay, nhưng không trúng máy bay. Phát thứ hai điều chỉnh, lại vọt ra ngoài. Tôi lo lắng nghĩ bụng: “Bắn chác thụt lùi thế này thì bỏ mẹ…”. Lập tức tôi gọi điện động viên anh em pháo thủ, nhắc anh em kiểm tra lại đường ngắm. Phát thứ ba trúng chiếc máy bay hen-cát. Máy bay bốc cháy. Lúc này bọn địch đang nhốn nháo cho máy bay tản ra và bay lên trời.
Lập tức tôi báo cáo thành tích đó lên Bộ chỉ huy mặt trận và được Bộ quyết định tặng thưởng Huân chương Quân công cho đơn vị pháo 75 của đại đoàn. Tiếp đó, anh Văn nhắc tôi: – Phải đề phòng, kẻo địch oanh tạc lại đấy.
Quả nhiên, một lúc sau, máy bay, đại bác địch tới tấp phản kích về phía chúng tôi. Nhưng chúng chỉ oanh tạc xuống trận địa nghi binh của ta mà thôi. Còn đơn vị pháo lúc đó cứ yên trí ngồi trong hầm ăn mừng chiến thắng đầu xuân với vài chiếc bánh chưng từ hậu phương gửi tới.
Thiếu tướng LÊ QUẢNG BA
MAI VUI ghi
(Trích từ tập sách “Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ”)