Tự xét tuổi đã cao, sức khỏe yếu, ông dâng sớ xin hồi hưu nhưng không được chuẩn tấu. Vua đã nói với ông những lời tâm sự chân thành: ”Nước có bề tôi già, là điều hay của thịnh triều…”. Vậy là buộc ông phải nghênh chiếu ở lại lo tròn công việc. Năm thứ 2 Thiệu Trị tuần tra phía Bắc, ông được sung chức Khâm sai Đốc lý, tra biện các việc án. Có công lao nên năm thứ 6 Thiệu Trị nhân ”Khánh tiết” ban ơn gia chức Ngự triều Đại thần, Vua đã ban cho ông ân huệ thẻ bài bằng ngọc có chạm 4 chữ vàng ”Ngự Triều Đại Thần ”.
Năm Vua Tự Đức lên ngôi, lại dùng ông, khiêm sung chức ”Hoàng Thân Sư Bảo” (dạy Vua) và kiêm việc trông coi các sự vụ như cũ. Mỗi việc triều chính, ông luôn dụng tâm vào những điều trần để dâng lên Hoàng Thượng và ông càng được uy tín khi mọi điều trần đều được nhà Vua chấp nhận. Đáng kể là việc xin gia ân cho con cháu Anh Duệ Thái tử. Xin bổ dụng con cháu những tay phản nghịch là khoan dung độ lượng cho người có tội với lời lẽ chí tình, chí lý nên được Vua chuẩn tấu cho thi hành.
Năm thứ 3 triều Tự Đức gặp kỳ ”Đại Kế”, ông được Vua thưởng một chiếc Kim Khánh cho khắc chữ “Túc Đức Nguyên Lão” (Lão thần giàu đức độ). Khi ông 80 tuổi vua Tự Đức làm 2 bài thơ tặng với ý ngợi ca, tỏ niềm tâm đắc với một Đại thần. Trong bài có câu với ý:
”Thiên hạ giữ đạo trung dung chỉ có Bá Thủy*
Thế gian đức trọng phải tôn trọng Văn Công**
Tuy da gà tóc hạc nhưng tinh thần còn vượng
Sử mã, kinh luân đạo Nho há có cùng đâu…”
Và tặng tấm biển vàng khắc 4 chữ ”Hy Triều Kỳ Thạc”, lại tặng một chiếc cưu trượng (gậy ”linh thọ” 9 đốt, đầu gậy khắc chạm đầu con chim cưu (Tú hú) và, kính tốt, vàng, lụa, lược, chè… Việc làm ấy của Vua chứng tỏ ông là người được nhiều bầu bạn quý trọng, sống thọ.
Bước vào thọ tuổi 81, ông dâng sớ xin nghỉ triều chính, lần này được Vua chuẩn. Trước khi nghỉ Vua cho quan Nội các đến hỏi những việc nên thường làm, ông đã trình bày 4 việc:
– Năm được mùa giá thóc rẻ, đặt giá thêm lên đong vào, gặp năm mất mùa đem ra chẩn cấp.
– Lính ở Miền Nam thì 6 đinh giảm đi 1 lính, Miền Bắc thì hàng năm về Kinh thao diễn, rời lưu lại làm việc 6 tháng. Lính ở Kinh thì đầu năm kiểm duyệt xong chia làm 2 ban, 1 ban ở lại, 1 ban về.
– Con trai, con gái của các tước vương, tước công cùng với con trai con gái em và cháu (gọi bằng chú, bác) của quan văn, quan võ từ tam phẩm trở xuống được lấy nhau, nếu có người nào theo làm việc và xuất thân do văn khoa võ tuyển, thì cho phép cùng được bổ dụng.
– Xin cho chăm dưỡng mẹ đẻ của viên Lạng Sơn án sát đã chết là Mai Anh Tuấn…
Những điều ông nêu tâu lên đều được Vua chọn lấy để thi hành. Đến năm thứ 5 vua Tự Đức thì ông Vũ Xuân Cẩn mất. Ông mất vào ngày 21 tháng 3. Vua cho khắc văn bia với tên thụy là Văn Đoan. Lại sai Bộ Lễ đem bài thơ và bài minh ở bia của Vua làm, cho khắc vào đá dựng ở chỗ làng, nhan đề rằng: ”Tứ Triều Nguyên Lão” (Ông lão có đức vọng lớn ở 4 triều Vua). (Nay đã được dịch ra Quốc ngữ).
Năm Tự Đức thứ 11 Bài vị ông được đưa vào thờ ở đền Hiền Lương, Kinh đô Huế.
Nhiều đánh giá thời trước cũng như sau này về vị Nguyên lão Vũ Xuân Cẩn đáng để người đời ghi nhớ:
Gọi ông là người tam đạt: Tước cao – Đức lớn – Sống lâu. Nếu ông không phải là người trung can cần mẫn thì đâu đủ để Thánh Chúa tin yêu, không phải là hạng người khiêm tốn, hòa nhã thì đâu đủ để gom nhiều phúc lớn. Ông sống thọ cũng nhờ những đức tính ấy.
Nguồn: Quảng Bình ẩn tích thời gian
Hội DSVH Việt Nam tỉnh – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Bình – 2009